Glôcôm góc mở nguyên phát là gì? Các công bố khoa học về Glôcôm góc mở nguyên phát

Glôcôm góc mở nguyên phát là một loại bệnh mắt mà áp lực trong mắt tăng lên do bị cản trở trong dòng chảy chất lỏng mắt (hơi chảy cơ học). Điều này gây tổn thươ...

Glôcôm góc mở nguyên phát là một loại bệnh mắt mà áp lực trong mắt tăng lên do bị cản trở trong dòng chảy chất lỏng mắt (hơi chảy cơ học). Điều này gây tổn thương cho thần kinh quang (thần kinh chịu trách nhiệm vận chuyển thông tin từ võng mạc đến não). Glôcôm góc mở nguyên phát có thể gây mất thị lực dần dần và trong một số trường hợp nghiêm trọng, nó có thể dẫn đến mù loà hoặc mù điểm. Điều này đòi hỏi chẩn đoán và điều trị sớm để kiểm soát áp lực mắt và bảo vệ thần kinh quang.
Glôcôm góc mở nguyên phát là một loại bệnh mắt phổ biến, ảnh hưởng đến hầu hết những người trên 40 tuổi. Bệnh này xảy ra khi không gian góc mở trước mắt, nơi mà chất lỏng mắt (hơi chảy) thoát ra, bị cản trở, dẫn đến tăng áp lực trong mắt.

Những yếu tố nguy cơ cho glôcôm góc mở nguyên phát bao gồm tuổi cao, di truyền, người châu Á, đáng chú ý là người Nhật Bản. Những người bị cận thị hoặc viễn thị, các bệnh tim mạch, tiểu đường, bệnh tăng huyết áp và kiểu hình mắt dẹp có thể tăng nguy cơ mắc bệnh này.

Khi áp lực trong mắt tăng, nó gây tổn thương cho thần kinh quang. Thần kinh quang chịu trách nhiệm vận chuyển tín hiệu từ võng mạc (bộ phận mắt chịu trách nhiệm nhận những tín hiệu ánh sáng) đến não. Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, tổn thương dẫn đến mất thị lực dần dần. Trong một số trường hợp nghiêm trọng, glôcôm góc mở nguyên phát có thể gây mù loà và mù điểm.

Việc chẩn đoán glôcôm góc mở nguyên phát bao gồm kiểm tra áp lực trong mắt (thường được gọi là tônometri) và kiểm tra sự mở góc mắt (thường được gọi là góc mở góc). Nếu glôcôm được nghi ngờ, bác sĩ có thể yêu cầu thêm xét nghiệm như trường góc mắt và xét nghiệm đèn sáng.

Điều trị glôcôm góc mở nguyên phát nhằm kiểm soát áp lực trong mắt. Thuốc nhỏ mắt chính là phương pháp điều trị phổ biến ban đầu, dùng để giảm áp lực mắt bằng cách tăng dòng chảy chất lỏng mắt hoặc giảm sản xuất chất lỏng mắt.

Nếu thuốc không đủ hiệu quả, các phương pháp khác như laser (trong đó laser được sử dụng để cắt bỏ một phần của mô trong góc mở) hoặc phẫu thuật có thể được thực hiện để cải thiện dòng chảy chất lỏng mắt.

Tuy glôcôm góc mở nguyên phát không thể chữa khỏi, điều trị đúng hướng và theo dõi thường xuyên có thể ngăn ngừa mất thị lực và giữ cho tình trạng ổn định. Việc kiểm tra mắt định kỳ và tuân thủ các chỉ định điều trị của bác sĩ là quan trọng để kiểm soát và quản lý tình trạng này.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "glôcôm góc mở nguyên phát":

BIẾN CHỨNG MỞ MỐNG MẮT CHU BIÊN BẰNG ND: YAG LASER DỰ PHÒNG GLÔCÔM GÓC ĐÓNG NGUYÊN PHÁT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá biến chứng của phương pháp cắt mống mắt chu biên bằng Nd: YAG laser dự phòng glocom góc đóng nguyên phát. Đối tượng và phương pháp: 124 mắt glocom tiềm tàng trên bệnh nhân glocom góc đóng cơn cấp nguyên phát được đưa vào nghiên cứu từ Bệnh viện Mắt Trung ương, Bệnh viện Mắt Hà Đông và Khoa Mắt, Bệnh viện Quân y 103 trong thời gian từ 01/2018 đến 11/2019. Nghiên cứu can thiệp theo dõi dọc theo thời gian, tất cả các bệnh nhân được điều trị cắt MMCB bằng laser dự phòng, thời gian theo dõi ít nhất 1 năm. Kết quả: Tất cả các mắt điều trị dự phòng đều đạt hiệu quả nhãn áp tốt sau 1 năm theo dõi. XHTP xảy ra trên 22 mắt (17,7%) chủ yếu độ 1 (18/22 mắt) hay gặp hơn khi tiến hành laser ở vị trí xa chu biên (77,3%). Bỏng giác mạc chu biên xảy ra trên 14 mắt (11,2%), trong đó 10 mắt 1 nốt bắn, 4 mắt 2 nốt bắn, xuất hiện nhiều hơn trong nhóm tiền phòng nông (<2,5mm) (85,7%) và được laser ở vị trí sát với chân mống mắt (92,8%). Nhãn áp được đo sau thủ thuật 24 giờ, trung bình 20,07±3, 56 (16-24 mmHg), tăng trung bình 4,68 ±2,41 (3-7 mmHg), tăng nhiều hơn trên nhóm mắt có mống mắt dày (72,7%) Viêm màng bồ đào (VMBĐ) trước xảy ra 24/124 mắt (19,35%), ở mức độ nhẹ Tyndall (+), cải thiện hoàn toàn sau 3,47±1,36 (3-5 ngày), xuất hiện nhiều hơn trên mắt dày sắc tố mống mắt (75%). Dính bít lỗ cắt mống mắt chu biên xảy ra trên 17/124 mắt (13,7%), nhiều hơn trên nhóm mắt có sắc tố mống mắt dày (76,5%) và lỗ cắt mống mắt nhỏ chưa đảm bảo >150µm (100%). Kết luận: Phương pháp cắt mống mắt chu biên bằng Nd: YAG laser khá an toàn, mặc dù có một  tỷ lệ tai biến, biến chứng nhất định nhưng ở mức độ nhẹ, có thể can thiệp dễ dàng không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng.
#Glôcôm góc đóng cấp #cắt mống mắt chu biên #YAG laser #tai biến #biến chứng
ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA SLT THÌ ĐẦU TRÊN GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị bằng laser tạo hình vùng bè chọn lọc thì đầu trên bệnh nhân Glôcôm góc mở nguyên phát. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp được tiến hành trên 36 mắt của 18 bệnh nhân Glôcôm góc mở nguyên phát, được điều trị bằng laser tạo hình vùng bè chọn lọc 3600 thì đầu. Bệnh nhân được theo dõi tại các thời điểm 2 tuần, 1 tháng và 2 tháng. Số thuốc tra cần sử dụng bổ sung tại các thời điểm trước và sau điều trị 2 tuần, 1 tháng và 2 tháng. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị được phân tích. Kết quả: Có mối liên quan giữa tình trạng nhãn áp trước điều trị với mức độ thành công của điều trị ở các thời điểm 2 tuần và 2 tháng, nhãn áp càng cao càng làm tăng khả năng thành công điều trị. Độ mở góc cũng ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ hạ nhãn áp sau SLT (p=0,044). Không tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, giới, thị lực trước điều trị, giai đoạn bệnh, tình trạng sắc tố vùng bè với mức độ thành công của điều trị. Kết luận: Có mối liên quan giữa nhãn áp trước điều trị với mức độ thành công điều trị.
#laser tạo hình vùng bè thì đầu #glôcôm góc mở nguyên phát #yếu tố ảnh hưởng
KẾT QUẢ LÂU DÀI CỦA PHẪU THUẬT CẮT MỐNG MẮT CHU BIÊN PHỐI HỢP LASER TẠO HÌNH MỐNG MẮT ĐIỀU TRỊ GLÔCÔM GÓC ĐÓNG NGUYÊN PHÁT CẤP TÍNH KHÔNG KÈM ĐỤC THỂ THỦY TINH KHÔNG ĐÁP ỨNG VỚI ĐIỀU TRỊ NỘI KHOA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả 3 năm của phương pháp phối hợp phẫu thuật cắt mống mắt chu biên (MMCB) và laser tạo hình chân mống mắt (IP) trong điều trị glôcôm góc đóng nguyên phát cấp tính không đáp ứng với điều trị nội khoa không kèm theo đục thể thủy tinh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp mô tả cắt ngang tại thời điểm 3 năm 28 mắt của 25 bệnh nhân được chẩn đoán xác định là glôcôm góc đóng nguyên phát cấp tính đã được điều trị laser tạo hình mống mắt kết hợp cắt mống mắt chu biên và theo dõi tại 3 cơ sở nghiên cứu. Kết quả: Thị lực LogMAR trung bình sau 3 năm là 0,58±0,44, nhãn áp trung bình sau 3 năm 13,66±3,74 mmHg, tỉ lệ kiểm soát nhãn áp thành công tuyệt đối là 82,14%, tương đối là 7,14% và thất bại là 10,71%. Độ mở trung bình góc tiền phòng sau 3 năm là 1,39±0,72, lõm gai là 0,55±0,18 tăng có đáng kể so với thời điểm 1 năm sau can thiệp. Kết luận: Phẫu thuật cắt mống mắt chu biên phối hợp laser tạo hình chân mống mắt cho hiệu quả hạ nhãn áp lâu dài, giúp ngăn chặn tiến triển của bệnh lý glôcôm và bảo tồn chức năng thị giác của người bệnh.
#Glôcôm góc đóng nguyên phát cấp tính #cắt mống mắt chu biên #laser tạo hình mống mắt
Nghiên cứu đặc điểm siêu âm sinh hiển vi (UBM) của mắt glôcôm góc đóng nguyên phát cấp tính
Tóm tắt Mục tiêu: Mô tả đặc điểm siêu âm sinh hiển vi (UBM) của mắt bị góc đóng cơn cấp. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện tại Khoa Glôcôm và Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 05/2018 đến tháng 3/2019. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân bị glôcôm có 1 mắt glôcôm góc đóng nguyên phát cơn cấp. UBM được làm trong cơn cấp trước điều trị hạ nhãn áp, kết hợp so sánh đặc điểm UBM của mắt tiềm tàng đối bên. Chẩn đoán hình thái dựa vào tiêu chuẩn của Svend Vedel Kessing và John Thygesen (2007). Kết quả: Nghiên cứu thu thập được 68 mắt/68 bệnh nhân, trong đó có 57 bệnh nhân nữ (83,8%) và 11 nam giới (16,2%) (nữ/nam = 5,18/1). Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 62,05 tuổi. Trong 68 mắt cơn cấp có 29 mắt được xếp loại cơ chế đóng góc là nghẽn đồng tử (NĐT) (43%) và 39 mắt là mống mắt phẳng (57%). Không có sự khác biệt về trục nhãn cầu, các đặc điểm UBM của tiền phòng giữa 2 nhóm này. Các dấu hiệu đặc hiệu cho mống mắt phẳng trong cơn cấp là mống mắt bám dốc, thể mi xoay trước (TCPD, ICPD) và mất rãnh thể mi. Không có sự khác biệt đặc điểm góc tiền phòng của 55 mắt cơn cấp và 55 mắt tiềm tàng đối bên. Kết luận: Tỷ lệ mống mắt phẳng gặp nhiều ở bệnh glôcôm góc đóng cấp có thể làm thay đổi chiến lược điều trị đặc biệt là điều trị dự phòng. Góc tiền phòng rất hẹp ở mắt tiềm tàng yêu cầu điều trị dự phòng sớm nhất có thể. Từ khóa: Glôcôm góc đóng cơn cấp, siêu âm UBM, nghẽn đồng tử, mống mắt phẳng.
#Glôcôm góc đóng cơn cấp #siêu âm UBM #nghẽn đồng tử #mống mắt phẳng
ĐÁNH GIÁ TÁC DỤNG PHỤ CỦA TAFLUPROST 0,0015% TRONG ĐIỀU TRỊ GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng không mong muốn của Tafluprost 0,0015%. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu đã thu nhận 46 mắt của 28 bệnh nhân Glôcôm góc mở có chỉ định điều trị bằng thuốc từ tháng 2/2015 đến tháng 9/2015. Tác dụng không mong muốn toàn thân, triệu chứng cơ năng, triệu chứng thực thể được đánh giá tại các thời điểm sau điều trị 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng. Kết quả: Không gặp bất kì tác dụng phụ toàn thân nào trong thời gian 3 tháng điều trị. Các triệu chứng cộm mắt (6,2%), ngứa mắt (3,1%), đau mắt (3,1%) xuất hiện tại thời điểm 2 tuần đáp ứng tốt với điều trị và không xuất hiện ở các lần khám sau. Triệu chứng cương tụ kết mạc (4,4%) xuất hiện tại thời điểm 1 tuần và giảm dần tại các lần thăm khám sau. Dài lông mi chỉ xuất hiện trên 2 mắt sau 3 tháng điều trị (4,3%). Tình trạng khô mắt nhẹ và trung bình tại thời điểm 1 tuần chiếm đa số (50% và 25%), sau 3 tháng là 46,8% và 31,2%. Tỉ lệ khô mắt nặng sau 1 tuần điều trị là 6,2% sau 3 tháng là 0%.  Kết luận: Tafluprost 0,0015% là một thuốc điều trị Glôcôm có tác dụng tốt, không gặp tác dụng phụ toàn thân, các tác dụng phụ thường nhẹ thoáng qua đáp ứng tốt với điều trị.
#Glôcôm góc mở #Tafloprost 0 #0015% #tác dụng phụ
KẾT QUẢ LASER TẠO HÌNH VÙNG BÈ CHỌN LỌC THÌ ĐẦU TRÊN BỆNH NHÂN GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser trên bệnh nhân Glôcôm góc mở nguyên phát thì đầu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp trên 36 mắt trên 18 bệnh nhân Glôcôm góc mở nguyên phát, được tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser 3600. Theo dõi sau điều trị 2 tuần, 1 tháng và 2 tháng. Số thuốc tra được sử dụng được đánh giá tại các thời điểm sau điều trị 1 tháng và 2 tháng. Kết quả: Độ tuổi trung bình là: 61.67 ± 12.61, tỷ lệ nam/nữ là: (67%/34%), tất cả bệnh nhân ở giai đoạn trung bình và nặng (25%/75%). Nhãn áp trung bình trước điều trị là: 31.24 ± 11.50mmHg, giảm xuống 20.91 ± 7.30 mmHg sau 2 tuần, sau 1 tháng 21.04 ± 9.02 mmHg, sau 2 tháng 18.34 ± 4.45 mmHg với tỷ lệ hạ NA tương ứng là: 27.63%, 28.22% và 31.96%. Số thuốc tra trung bình cần điều trị bổ sung ở thời điểm sau điều trị 1 tháng là: 0.46±0.78 thuốc, sau 2 tháng là: 0.18 ± 0.40 thuốc. Biến chứng ít gồm cộm vướng (14%), cương tụ kết mạc (8%) xuất hiện nhẹ, thoáng qua, đáp ứng tốt với điều trị. Kết luận: Laser tạo hình vùng bè chọn lọc là phương pháp điều trị đầu tay tương đối an toàn, hiệu quả trong điều trị bệnh nhân Glocom góc mở nguyên phát.
#Glôcôm góc mở nguyên phát #laser tạo hình vùng bè chọn lọc thì đầu #nhãn áp
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỊ TRƯỜNG TRÊN MẮT GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT SAU ĐIỀU TRỊ TẠO HÌNH VÙNG BÈ CHỌN LỌC BẰNG LASER
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá thay đổi trên thị trường trên mắt glôcôm góc mở nguyên phát sau điều trị tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, thực hiện trên 84 mắt glôcôm góc mở nguyên phát chưa điều trị gì. Các mắt được đưa vào nghiên cứu sẽ được phân bổ ngẫu nhiên vào nhóm 1: điều trị thuốc tra Travoprost 0,004% ngày 1 lần hoặc nhóm 2: tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser 360°. Làm thị trường Humphrey 24:2 tại các thời điểm: trước điều trị, 6 tháng, 12 tháng và 18 tháng. Kết quả: Sau 18 tháng, giá trị trung bình và trung vị của độ lệch trung bình (MD) và độ lệch riêng biệt (PSD) đều ổn định qua các lần khám. 37 mắt (88,0%) trong nhóm 2 có thị trường cải thiện chậm, số mắt có tiến triển nặng hơn là 5 mắt trong đó 2 mắt (4,8%) tiến triển chậm, 1 mắt (2,4%) tiến triển trung bình và 2 mắt (4,8%) tiến triển nhanh. Không có mắt nào có tiến triển sang giai đoạn nặng hơn trên thị trường. Nhóm 1 có số mắt có tiến triển nhanh trên thị trường cao hơn nhóm 2 (11,9% so với 4,8%) nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Các mắt glôcôm góc mở nguyên phát điều trị tạo hình vùng bè có chọn lọc bằng laser có kết quả thị trường ổn định và không có sự khác biệt về mức độ tiến triển trên thị trường so với điều trị bằng thuốc tra Travoprost 0,004%.
#Glôcôm góc mở nguyên phát #tổn thương thị trường tiến triển #tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser
ĐÁNH GIÁ TỔN THƯƠNG KHU TRÚ LỚP SỢI THẦN KINH QUANH ĐĨA THỊ TRÊN BỆNH NHÂN GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá tổn hại khu trú lớp sợi thần kinh quanh đĩa thị trên bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát giai đoạn tiềm tàng, sơ phát, trung bình và tương quan với tổn hại thị trường. Phương pháp: Mô tả cắt ngang trên những bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát đến khám tại bệnh viện mắt trung ương đáp ứng tiêu chuẩn. Chúng tôi tiến hành khám mắt toàn diện, đo thị trường trung tâm 24-2 bằng máy Humphrey, Chụp OCT đầu thị thần kinh bằng máy Cirrus HD- OCT 5000 chế độ chụp Optic Disk Cube 200x200 phân thích lớp sợi thần kinh ONH and RNFL OU Analysis. Kết quả: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 146 mắt của 99 bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát. Có sự biến đổi có ý nghĩa về độ dày lớp sợi thần kinh theo các giai đoạn thị trường ở các vị trí trung bình (p=0.009), phía trên (p=0.034), phía dưới (p=0.002), 5 giờ (p=0.025), 6 giờ (p=0.012) với độ tin cậy trên 95% (p<0.05). Có mối tương quan có ý nghĩa giữa độ dày lớp sợi thần kinh trung bình, độ dày lớp sợi thần kinh phía trên, dưới và các vị trí 1 giờ, 2 giờ, 5 đến 7 giờ, 11 và 12 giờ với các chỉ số thị trường với p< 0.05. Mối tương quan chặt chẽ nhất thể hiện ở vị trí góc dưới với các chỉ số MD, PSD và VFI lần lượt là 0.341, 0.334 và 0.31. Kết luận: Tổn thương khú trú của lớp sợi thần kinh biến đổi có ý nghĩa ở những bệnh nhân glôcôm góc mở nguyên phát giai đoạn sớm, tuy nhiên những biến đổi khu trú ở 1 cung giờ còn ít và cần nghiên cứu thêm. Độ dày lớp sợi thần kinh trung bình và một số vị trí có mối tương quan yếu với tổn hại thị trường giai đoạn sớm.
#góc mở #khu trú #lớp sợi thần kinh
Đánh giá kết quả tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser trong điều trị glôcôm góc mở nguyên phát
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 137 Số 1 - Trang 23-29 - 2021
Glôcôm góc mở nguyên phát là bệnh lý gây tổn thương tiến triển thần kinh thị giác mà phương pháp điều trị chính là hạ nhãn áp bằng thuốc tra, laser hoặc phẫu thuật. Tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser không chỉ là một phương pháp điều trị bổ trợ mà dần được lựa chọn là một điều trị độc lập, thậm chí là điều trị đầu tay thay cho thuốc tra hoặc phẫu thuật. Mục tiêu nghiên cứu nhằm: 1) Đánh giá kết quả hạ nhãn áp của phương pháp tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser (SLT) trong điều trị glôcôm góc mở nguyên phát, 2) Đánh giá mức độ an toàn của phương pháp điều trị bằng SLT. Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng thực hiện trên 55 mắt glôcôm góc mở nguyên phát được điều trị tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser trên toàn bộ 360° chu vi vùng bè với thời gian theo dõi đến 18 tháng. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhãn áp trung bình trước điều trị: 28,26 ± 4,62 mmHg. Từ sau điều trị 1 tuần, nhãn áp trung bình tại các lần khám đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,001) so với trước điều trị. Tỷ lệ hạ nhãn áp thành công đạt từ 74,55% cho đến cao nhất là 81,82%. Các biến chứng gặp phải là không đáng kể, thường gặp nhất là nhức mắt (43,64%). Như vậy, điều trị glôcôm góc mở nguyên phát bằng SLT có hiệu quả hạ nhãn áp tốt, an toàn, ít biến chứng. 
#nhãn áp #glôcôm góc mở nguyên phát #tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ PHẪU THUẬT MỞ BÈ TỪ PHÍA TRONG TIỀN PHÒNG ĐIỀU TRỊ GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kết quả phẫu thuật mở bè từ phía trong tiền phòng bằng dây dẫn sáng iTrack để điều trị glôcôm góc mở nguyên phát đã phẫu thuật thất bại. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Can thiệp lâm sàng, tiến cứu, không có nhóm chứng. Phẫu thuật tiến hành trên 15 mắt (14 bệnh nhân) bị glôcôm góc mở tại khoa Glôcôm, bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 3 đến tháng 12 năm 2022. Tiêu chuẩn chọn: Glôcôm góc mở nguyên phát đã phẫu thuật lỗ rò nhãn áp không điều chỉnh với ≥ 2 thuốc bổ sung. Các yếu tố giới tính, tuổi, tiền sử phẫu thuật, mức thị lực, mức nhãn áp trước phẫu thuật, chiều dài trục nhãn cầu, độ rộng chu vi đường mở bè, biến chứng được thu thập và xử lý theo thuật toán thống kê y học. Kết quả nghiên cứu: Độ rộng chu vi đường mở bè trung bình ở những mắt đã phẫu thuật thành công là cao hơn so với những mắt đã phẫu thuật mở bè thất bại (249,1°± 55,39° so với 147,5°±39,47°). Chu vi độ rộng đường mở bè lớn hơn thì mức nhãn áp sau phẫu thuật thấp hơn. Tỷ lệ thất bại ở những mắt có mức độ biến chứng xuất huyết tiền phòng ≥ độ 1 sau mổ là 75% trong khi tỷ lệ thất bại ở nhóm có mức độ xuất huyết tiền phòng độ 0 chỉ là 9,1%. Ngoài ra, nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan giữa các yếu tố như tuổi, giới tính, mức thị lực, mức nhãn áp trước mổ đến kết quả phẫu thuật. Kết luận: Độ rộng chu vi đường mở bè và mức độ biến chứng xuất huyết tiền phòng là 2 yếu tố có liên quan đến kết quả phẫu thuật. Độ rộng chu vi đường mở bè càng lớn càng lớn thì tỷ lệ thành công cao hơn và mức nhãn áp sau mổ cũng thấp hơn. Xuất huyết tiền phòng ≥ độ 1 làm tăng tỷ lệ thất bại của phẫu thuật mở bè.
#mở bè #ab interno.
Tổng số: 10   
  • 1